Trả lời
1. Để xác nhận thương binh và người hưởng chính sách như thương binh trong chiến tranh không còn giấy tờ, cần có các căn cứ sau:
Thứ nhất: Căn cứ về điều kiện: Phải là người bị thương trong chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu từ ngày 31/12/1991 trở về trước không còn giấy tờ. Không áp dụng đối với người bị thương đã có văn bản của cơ quan có thẩm quyền kết luận không đủ điều kiện xác nhận thương binh, người hưởng chính sách như thương binh hoặc đã được giải quyết chế độ tai nạn lao động, tai nạn chiến tranh; người bị thương đã được giám định thương tật có tỷ lệ dưới 21%; người bị thương đã qua các đoàn an dưỡng, điều dưỡng thương bệnh binh, trừ trường hợp đã qua đoàn an dưỡng nhưng chưa được giám định do giấy tờ chỉ ghi sức ép hoặc chấn thương.
Thứ hai: Căn cứ để cấp giấy CNBT đề nghị xác nhận thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được quy định tại Khoản 2 Điều 6 Thông tư số 28/2013/TTLT, như sau:
a) Giấy tờ có ghi sức ép hoặc chấn thương; Danh sách quân nhân bị thương của cơ quan, đơn vị quản lý đối tượng khi bị thương có ghi tên cá nhân bị thương;
b) Giấy tờ, tài liệu của cơ quan, đơn vị lập từ ngày 31/12/1994 trở về trước có ghi nhận cá nhân bị thương khi tham gia chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu. Trường hợp giấy tờ, tài liệu không ghi các vết thương cụ thể thì căn cứ vào kết quả kiểm tra vết thương thực thể của cơ quan, đơn vị có thẩm;
c) Người bị thương thuộc lực lượng quân đội, công an có vết thương thực thể nhưng không còn danh sách quân nhân bị thương do cơ quan, đơn vị quản lý quân nhân khi bị thương đã giải thể hoặc không lưu trữ được;
d) Trường hợp không có vết thương thực thể nhưng còn dị vật kim khí trong cơ thể thì phải có kết quả chiếu, chụp và kết luận của bệnh viện cấp huyện trở lên hoặc bệnh viện quân đội, công an khẳng định còn dị vật kim khí trong cơ thể.
Thứ ba: Căn cứ vào thủ tục, hồ sơ xác nhận thương binh được lập từ cơ sở đúng đối tượng, đủ thủ tục, đảm bảo quy trình.
Hồ sơ phải được rà soát, xét duyệt của cấp ủy, chính quyền địa phương, trước hết phải được sự đồng thuận của các đoàn thể và quần chúng nhân dân, nòng cốt là Hội Cựu chiến binh tại cơ sở xã, phường, thị trấn; quan trọng nhất là cơ quan quân sự địa phương các cấp làm tốt công tác kiểm tra, rà soát, xác minh chặt chẽ, cụ thể, chính xác; không để sai sót, tiêu cực xảy ra).
2. Thẩm quyền của cơ quan liên quan
- Người bị thương lập tờ khai (Mẫu TB) kèm theo các giấy tờ chứng minh tham gia cách mạng và bị thương gửi UBND cấp xã nơi cư trú;
- UBND cấp xã căn cứ vào Biên bản niêm yết công khai, tổ chức Hội đồng chính sách lập biên bản đề nghị xác nhận thương binh (Mẫu BB-TB) và làm thủ tục gửi lên Ban CHQS cấp huyện;
- Ban CHQS cấp huyện kiểm tra hồ sơ, nếu các trường hợp đủ điều kiện thì có công văn kèm theo danh sách và hồ sơ gửi Bộ CHQS cấp tỉnh;
- Bộ CHQS cấp tỉnh kiểm tra, xác minh (Mẫu XM); những hồ sơ đủ điều kiện thì cấp giấy CNBT, có công văn kèm theo danh sách, hồ sơ gửi Cục Chính trị Quân khu;
- Cục Chính trị Quân khu (BTL Thủ đô Hà Nội).
+ Tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ có công văn đề nghị Cục Chính sách/TCCT thẩm định;
+ Giới thiệu đến Hội đồng GĐYK giám định thương tật;
+ Quyết định cấp giấy chứng nhận thương binh và trợ cấp, phụ cấp thương tật theo thẩm quyền;
- Cục Chính sách/TCCT tiếp nhận, thẩm định hồ sơ do các quân khu, BTL Thủ đô Hà Nội chuyển đến; giới thiệu đến Hội đồng GĐYK giám định thương tật đối với những hồ sơ đủ điều kiện và ra quyết định cấp giấy CNTB và trợ cấp, phụ cấp thương tật đối với các trường hợp thuộc địa bàn Thủ đô Hà Nội./.
PHÒNG TBLS-NCC/CỤC CHÍNH SÁCH