Giá trị và sức sống trường tồn của học thuyết Mác được thể hiện trong hàng loạt nguyên lý, quan điểm mà C. Mác đã nghiên cứu về các hiện tượng xã hội nói chung, về con đường phát triển của xã hội loài người nói riêng; trong đó, vấn đề sở hữu có một vị trí cực kỳ quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội.
Khi bàn về vấn đề sở hữu trong mối quan hệ với sự hình thành các thiết chế nhà nước và pháp quyền, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra rằng, từ hình thức đầu tiên trong lịch sử là “sở hữu bộ lạc” đến hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, các quan hệ sở hữu chưa bao giờ được xác lập bằng quan hệ tự nhiên của nó (giữa kẻ chiếm hữu và đối tượng bị chiếm hữu) mà do sự biến động của các quan hệ xã hội, đặc biệt là những biến động của quan hệ giữa các giai cấp.
Trong các tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, “Bản thảo kinh tế triết học năm 1844”, “Tư bản”, … C. Mác và Ph. Ăng-ghen coi sở hữu là một phạm trù lịch sử, một quan hệ xã hội - quan hệ giữa người với người trong đời sống xã hội. Mác cho rằng sở hữu là một quan hệ xã hội có tính lịch sử[1], “một quan hệ không đơn giản và cũng là một khái niệm hoặc một nguyên lý không trừu tượng chút nào, mà là tổng hòa các quan hệ sản xuất”[2]. Sở hữu không chỉ bao gồm quan hệ con người chiếm hữu tư liệu sản xuất, của cải, mà điều cốt yếu là đề cập đến quan hệ giữa người với người trong quá trình diễn ra sự chiếm hữu đó.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng đồng thời nảy sinh và trở nên gay gắt, nổi bật là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đồ sộ, xã hội hóa rộng lớn và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản. Chính ma lực của lợi nhuận và “lòng tham không đáy” khiến các nhà tư bản chạy đua “bóp nặn thị trường”, tìm mọi cách bóc lột thậm tệ giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì lẽ đó, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848), C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đưa ra khẩu hiệu chiến đấu và cũng là mục đích cao cả của giai cấp vô sản đó là: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”[3]. Trong các tác phẩm mang tính cương lĩnh, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã xác định một cách triệt để và dứt khoát rằng sở hữu là “vấn đề cơ bản”, then chốt của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xóa bỏ chế độ tư hữu là tiền đề cơ bản cho việc xóa bỏ tất cả mọi “sự tha hóa”, cho sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng xã hội. Đó là một hành động cách mạng thực tế, “cấp thiết và không thể tránh khỏi”, “hành động cộng sản chủ nghĩa” lâu dài, chứ không phải là một hành động nhất thời, trong chốc lát. Rằng vấn đề sở hữu là “vấn đề hàng đầu”, “vấn đề sống còn”, “vấn đề lịch sử toàn thế giới” trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là quá trình cải tạo toàn bộ chế độ xã hội.
Để xóa bỏ chế độ tư hữu, theo Mác sẽ phải “kinh qua một quá trình rất khó khăn và lâu dài trong hiện thực”. Không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ở bất kỳ trình độ phát triển nào của nền sản xuất xã hội bằng mệnh lệnh hành chính, hay theo ý muốn chủ quan của con người. Những người cộng sản chỉ đặt ra cho mình nhiệm vụ xóa bỏ chế độ tư hữu bằng cách xóa bỏ sở hữu tư sản mà thôi. Ngay cả khi nhiệm vụ đó được đặt ra thì việc xóa bỏ chế độ tư hữu cũng không thể thực hiện được ngay lập tức, như Ph. Ăng-ghen đã viết trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”. Trả lời câu hỏi: Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Ph. Ăng-ghen nêu rõ: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu”[4]. Việc xóa bỏ chế độ tư hữu phải tuân theo các quy luật khách quan của sự vận động, phát triển xã hội và được thực hiện triệt để khi sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa. Khi đó, cái vỏ ấy sẽ vỡ tung ra với phương thức sản xuất mới có quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mác gọi đó là “sự phủ định cái phủ định”.
Kế thừa những quan điểm của C. Mác về sở hữu, V. I. Lê-nin đã nhận rõ tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Ông khẳng định: “Để thực sự giải phóng giai cấp công nhân, cần phải có cuộc cách mạng xã hội, xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, chuyển các tư liệu đó thành sở hữu công cộng và thay thế nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng việc tổ chức sản xuất sản phẩm theo lối xã hội chủ nghĩa...”[5]. Đồng thời V. I. Lê-nin cũng cho rằng, chủ nghĩa xã hội không hề xóa bỏ tất cả các quyền sở hữu của quần chúng nhân dân lao động, mà chỉ muốn xóa bỏ quyền sở hữu của bọn địa chủ và tư bản. Trên cơ sở đó, ngay sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, V. I. Lê-nin đã đề ra và chỉ đạo thi hành Chính sách kinh tế mới (NEP), làm sống lại nền kinh tế của đất nước với chế độ đa sở hữu, đa thành phần kinh tế, kể cả các thành phần phú nông và tư sản thành thị, đem lại sự khởi sắc nền kinh tế - xã hội, góp phần quan trọng tăng cường tiềm lực quốc phòng để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vấn đề sở hữu vào điều kiện cụ thể của đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp có nền kinh tế phát triển chậm, trở thành nước có sự phát triển năng động trong khu vực với tốc độ tăng trưởng hàng năm tương đối cao. Trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, tại Đại hội III Đảng ta đã đề ra chủ trương cải tạo hệ thống các quan hệ sản xuất cũ thành quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, với 2 hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Trong thời gian này, chúng ta đã tập trung chú trọng, tạo mọi điều kiện để phát triển các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, cải tạo, hạn chế để đi đến xoá bỏ dần các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã giải quyết khá tốt các nhu cầu dân sinh vốn khá yếu kém ở các nước chậm phát triển như ở nước ta; giúp cho việc huy động sức người, sức của cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi, giang sơn thu về một mối, đáng lẽ phải tập trung huy động mọi nguồn lực, mọi khả năng của các thành phần kinh tế để phát triển, nhưng chúng ta lại thực hiện một cách giáo điều, duy ý chí công cuộc cải tạo mà thực chất là xoá bỏ các thành phần được coi là phi xã hội chủ nghĩa nhằm thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước.
Trên thực tế, do lúc đó chúng ta nhận thức về vấn đề sở hữu theo quan điểm của C. Mác chưa đầy đủ, khi cho rằng, quan hệ sản xuất phải đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Do vậy, một hệ quả tất yếu đã xảy ra là các quan hệ sở hữu, các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và ngoài tập thể bị đối xử như là những vật cản đáng ghét cần phải xoá bỏ và cải tạo để đảm bảo sự đi lên và sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Chính vì nhận thức chưa đúng như vậy, chúng ta đã nóng vội và có phần duy ý chí khi xóa bỏ mọi hình thức sở hữu khác và chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Chúng ta cũng không tuân theo quy luật kinh tế khách quan là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, muốn cho sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhận rõ sai lầm đó, để công cuộc đổi mới đi đúng hướng, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải đổi mới tư duy, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan mà quan niệm duy vật lịch sử đã đặt ra. Bắt đầu từ Đại hội VI và sau này là các Đại hội VII, VIII và IX, Đảng đã chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các thành phần kinh tế được hình thành trên cơ sở của ba hình thức sở hữu cơ bản là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Điều quan trọng cần nhấn mạnh là nếu như trước đây, các thành phần kinh tế chủ yếu được xây dựng trên cơ sở của sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể thì hiện nay, nhiều thành phần kinh tế được xây dựng và phát triển trên cơ sở của sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp về tư liệu sản xuất. Thêm vào đó, những chủ trương, chính sách đối với các thành phần kinh tế qua các kỳ Đại hội đều đã có những thay đổi để phù hợp với mỗi giai đoạn.
Tại Đại hội X, trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới (1986 - 2006) Đảng khẳng định: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa… chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”[6]. Đại hội XI, Đảng ta làm rõ thêm: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”[7]. Kế thừa, phát triển đường lối của các kỳ Đại hội trước, tại Đại hội XII, Đảng ta xác định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề cốt lõi về bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong đó khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”[8]. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không khác biệt mà mang đầy đủ các đặc trưng phổ biến của kinh tế thị trường, như: tự do kinh doanh và cạnh tranh; mở cửa và hướng tới tự do hóa; đa dạng hóa các hình thức sở hữu; lấy quy luật giá trị và quan hệ cung cầu để xác định giá cả; coi cạnh tranh là động lực phát triển.
Có thể thấy, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoàn thiện, đổi mới và sáng tạo không ngừng trong nhận thức, tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng. Qua hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có bước phát triển trên các vấn đề chủ yếu như: xác định rõ hơn bản chất và phương hướng, phương thức phát triển kinh tế thị trường, xác định lộ trình thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Khắc phục triệt để quan niệm cho rằng, sở hữu chỉ là phương tiện, tăng trưởng kinh tế mới là mục tiêu, là điều quan trọng. Cứ tăng trưởng kinh tế ắt sẽ có công bằng xã hội mà không nhận thấy rằng, chính việc phân phối không đều về quyền sở hữu giữa các tầng lớp dân cư là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa những người giàu và những người nghèo, làm tăng sự bất công xã hội. Bởi vậy, quá trình phát triển chúng ta không được nóng vội xóa bỏ hay xác lập hình thức sở hữu nào đó một cách chủ quan, mà phải luôn luôn quan tâm giải quyết từng bước quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ sở hữu, sao cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới và lợi ích của người lao động để giảm dần sự bất bình đẳng trong xã hội. Quan điểm về vấn đề này là kết quả của một quá trình nhận thức, thể nghiệm, sửa đổi, bổ sung và vẫn đang tiếp tục được hoàn thiện. Một khi đã nhận thức được vai trò động lực của sở hữu thì sẽ có tác động rất lớn đến mọi hoạt động kinh tế của đất nước nói riêng và của toàn bộ đời sống xã hội ta nói chung.
Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố gây mất ổn định, khó lường đã đặt ra những yêu cầu mới cao hơn, phức tạp hơn đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy nhiệm vụ xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, trong đó có nhiều quân, binh chủng tiến thẳng ngay lên hiện đại cũng như cuộc đấu tranh nóng bỏng, quyết liệt trên mặt trận tư tưởng, lý luận đang đặt ra yêu cầu bức thiết về nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ lâu dài trong Quân đội. Trong điều kiện đó, nếu các chế độ, chính sách đãi ngộ không phù hợp, không thỏa đáng thì khó có thể thu hút và khuyến khích nguồn nhân lực chất lượng cao yên tâm công tác, cống hiến lâu dài, hết mình phục vụ quân đội. Chúng ta đều biết rằng, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, nhưng thắng lợi trong chiến tranh phụ thuộc rất lớn vào nhân tố con người và vũ khí; trong đó, con người giữ vai trò quyết định. Vì thế, trong quá trình từng bước hiện đại hóa Quân đội, phải chăm lo xây dựng con người. Cùng với việc phải thường xuyên đổi mới công tác giáo dục - đào tạo, huấn luyện... để không ngừng nâng cao bản lĩnh, tri thức và năng lực toàn diện cho bộ đội; bảo đảm mọi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, nhất trí cao và chấp hành nghiêm túc, sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, tinh thông nghiệp vụ, làm chủ và khai thác có hiệu quả vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật được giao; đồng thời cũng phải thường xuyên quan tâm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đảm bảo tốt các chế độ, chính sách đãi ngộ cho cán bộ, chiến sĩ, phù hợp với từng bước đổi mới của đất nước, nhằm động viên cán bộ, chiến sĩ, yên tâm công tác, ra sức phấn đấu, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, để góp phần thực hiện tốt chính sách xã hội đối với Quân đội và hậu phương quân đội cần phải có những bước đột phá, tạo sức hút mạnh mẽ đối với nguồn nhân lực chất lượng cao trong xã hội vào công tác lâu dài trong Quân đội; nâng cao chất lượng đào tạo, nuôi dưỡng, “giữ chân” người tài, tăng cường nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội theo mục tiêu xác định; bám sát điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới; nghiên cứu đề xuất, ban hành những chính sách mới đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội; đồng thời, rà soát hệ thống chính sách hiện hành, phát hiện những bất cập để lựa chọn, xác định khâu đột phá, chính sách đột phá. Trong đó, tập trung vào hai vấn đề căn bản: Một là, nội dung chế độ, chính sách, gồm những chính sách “trụ cột” như: Thu nhập, việc làm, nhà ở, chăm sóc sức khoẻ, …; hai là, cơ chế, điều kiện huy động tổng hợp các nguồn lực, bảo đảm cho quá trình hoàn thiện có tính khả thi và hiệu quả. Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với một số loại hình đơn vị sự nghiệp của Quân đội. Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng bảo đảm quyền lợi tối đa cho các đối tượng tham gia và thực hiện tốt vai trò “trụ cột” của chính sách an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với những người có công với cách mạng. Thường xuyên bám sát nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, sự phát triển về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của Quân đội để đề xuất, ban hành các chính sách đặc thù có tính đột phá đối với các đối tượng làm nhiệm vụ mới có yêu cầu cao, lực lượng làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo... góp phần thu hút, giữ gìn người tài, người làm việc giỏi, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ trong Quân đội, đồng thời cũng là tạo động lực phát triển để xây dựng Quân đội, hậu phương quân đội ngày càng vững mạnh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Từ những điều trình bày trên đây, có thể thấy rằng, việc thực hiện một nền kinh tế nhiều thành phần với các loại hình sở hữu khác nhau là chiến lược lâu dài và tối ưu làm cho nền kinh tế của đất nước trở nên năng động, qua đó phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân lao động và là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá hiệu quả việc xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Song, cũng cần phải nói thêm rằng, đối với con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, từ nhận thức đến vận dụng lý luận về sở hữu của chủ nghĩa Mác – Lê nin vào tình hình cụ thể Việt Nam cần phải có sự tìm tòi, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải quan tâm đúng mức đến việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, phát huy tốt vai trò nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, đối phó có hiệu quả với mọi tình huống xảy ra; sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của địch; tạo nền tảng chính trị - xã hội, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Nhân kỷ niệm 200 năm Ngày sinh của C. Mác (5/5/1818 – 5/5/2018), chúng ta tiếp tục khẳng định giá trị và sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác nói chung và những quan niệm của C. Mác về sở hữu nói riêng; đồng thời, nhận thức đầy đủ, sâu sắc những vấn đề sở hữu dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng ./.
[1] C. Mác và Ph. Ăng-ghen Tuyển tập gồm
6 tập, t.I. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 745 – 746.
[2] C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, t
4. Nxb Sự thật, Hà Nội 1987, tr 431.
[3] C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t4, tr 616.
[4] C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t4, tr 469.
[5] V.
[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời
kỳ Đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010,
tr 306.
[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 34.
[8] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI trình bày tại Đại hội XII của Đảng, tr 44, truy cập tại http://baochinhphu.vn/Dua-Nghi-quyet-Dai-hoi-XII-cua-Dang-vao-cuoc-song/Cong-bo-van-kien-Dai-hoi-XII-cua-Dang/250536.vgp.
Số/ký hiệu | Ngày ban hành | Trích yếu |
---|---|---|
194/HD-CS | 18/01/2023 | Hướng dẫn công tác chính sách năm 2023 |
20/QĐ-CT | 05/01/2023 | Phê duyệt Kế hoạch công tác chính sách năm 2023 |
1757/CT-CS | 19/10/2022 | Về việc rà soát, đánh giá thực trạng; đề xuất chủ trương, giải pháp hỗ trợ giải quyết chính sách, ổn định hậu phương cán bộ, QNCN, CCQP, CN&VCQP |
1528/CT-CS | 13/09/2022 | Về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách hậu phương quân đội |
1263/CS-NC | 08/06/2022 | Về việc giải quyết chế độ, chính sách đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng trong bàn giao, giải thể các trường cao đẳng nghề do Bộ Quốc phòng quản lý |
Số/ký hiệu | Ngày ban hành | Trích yếu |
---|---|---|
(Dự thảo) Tờ trình, (dự thảo) Thông tư | 11/09/2024 | (Dự thảo) Tờ trình, (dự thảo) Thông tư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay thế, bãi bỏ một số quy định, mẫu biểu tại các Thông tư liên tịch của Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính liên quan đến việc kê khai thông tin cá nhân khi thực hiện thủ tục hành chính |
75/2024/NĐ - CP | 30/06/2024 | Điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng |
13/2024/TT-BQP | 18/03/2024 | Sửa đổi, bổ sung một số điều của các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng liên quan đến việc kê khai thông tin cá nhân khi thực hiện thủ tục hành chính. |
82/2023/TT-BQP | 03/11/2023 | Quy định điều chỉnh trợ cấp hằng tháng đối với quân nhân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc |
55/2023/NĐ-CP | 21/07/2023 | Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2021/NĐ-CP ngày 24 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ quy định mức hưởng trợ cấp, phụ cấp và các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng |
SỐ LƯỢT TRUY CẬP HIỆN TẠI: 239
TỔNG SỐ LƯỢT TRUY CẬP: 21766719